Chửa trứng không còn là
chuyện lạ đối với phụ nữ Việt Nam. Nhưng những tác hại của chửa trứng đối với
sức khỏe sinh sản, hay biến chứng thành benh ung thu nhau thai của chửa trứng thì
không phải chị em nào cũng biết.
Chửa trứng là gì?
Bình thường nhau thai có
nhiệm vụ nuôi dưỡng bào thai trong thời kỳ thai nghén. Khi nhau thai sản sinh
quá mức, phát triển thành khối không được kiểm soát được gọi là chửa trứng. Đa
số trường hợp chửa trứng không có bào thai, gọi là “chửa trứng hoàn toàn”. Một
số trường hợp có bào thai, nhưng không sống được gọi là “chửa trứng bán phần”.
Gọi là chửa trứng vì trong
dạ con có nhiều nang trông như các quả trứng, hoặc chùm nho. Đó là do các lông
nhau thai sinh sôi và căng phồng.
Cho đến nay, y học vẫn
chưa tìm ra được chính xác nguyên nhân gây chửa trứng. Tuy nhiên, những nghiên
cứu khoa học cho thấy có thể do sai sót của yếu tố di truyền trong quá trình
thụ tinh đã dẫn đến những bất thường ở bộ nhiễm sắc thể. Khoảng 90% trường hợp
thai trứng bắt nguồn từ người cha và 10% từ người mẹ. Nếu phụ nữ mang thai trên
35 tuổi, quá trình thụ tinh dễ gặp bất thường. Ngoài ra, những nguyên nhân như
sai sót ở trứng, bất thường ở dạ con, thiếu các chất dinh dưỡng như đạm, acid
folic... dễ có nguy cơ bị thai trứng toàn phần.
Bình thường, chửa trứng
không nguy hiểm, vì khoảng 80% chửa trứng là lành tính, bệnh khỏi sau khi nạo
lấy hết nhau thai hoặc cắt dạ con ở người không có nhu cầu sinh đẻ nữa. Khoảng
10 - 15% chửa trứng trở thành loại xâm nhập, bệnh ăn sâu vào thành dạ con, gây
chảy máu và các tác hại nguy hiểm khác. Khoảng 2 - 3% chửa trứng trở thành ung
thư nhau thai. Khi đã thành ung thư nhau thai, bệnh phát triển nhanh, lan rộng,
di chuyển tới các nơi khác như phổi, não...
Phân biệt chửa trứng và biến chứng ung thư nhau thai
Chửa trứng và ung thư nhau
thai có những biểu hiện giống nhau và khá điển hình, đó là: chảy máu âm đạo; ra
dịch, các vật bất thường; đau bụng dưới; nôn hoặc buồn nôn; chảy dịch đầu vú
bất thường; bụng dưới to như có thai; bụng không nhỏ lại sau khi sinh. Nếu không
điều trị sớm, bệnh nhân sẽ dễ bị khó thở, liệt, co giật. Vì thế, khi có các
biểu hiện kể trên, chị em nên đi khám chuyên khoa sản để xác định bệnh, từ đó
có hướng điều trị phù hợp và kịp thời.
Sau khi làm các xét nghiệm
cần thiết, nếu đã xác định chắc chắn là chửa trứng, bệnh nhân sẽ được tư vấn
cách điều trị. Bệnh nhân sẽ được điều trị bệnh kết hợp như tiền sản giật, sản
giật, thiếu máu, rối loạn điện giải. Sau đó bác sĩ sẽ tiến hành phẫu thuật lấy
khối thai bằng cách hút nạo. Phương pháp này giúp tiết kiệm thời gian thực hiện
và không gây biến chứng tử cung. Nếu bệnh nhân chưa có con hoặc chưa sinh đủ
con, bác sĩ sẽ nạo sạch trứng trong buồng tử cung. Với những phụ nữ đã sinh đủ
con, tốt nhất là cắt buồng tử cung.
Tiếp theo, bệnh nhân chửa
trứng lành tính phải làm xét nghiệm máu, nước tiểu 2 tuần/lần cho đến khi lượng
hCG trở về bình thường. Khi hCG đã về mức cho phép, bệnh nhân vẫn phải tiếp tục
thử nước tiểu 4 tuần/lần trong thời gian 6 tháng, cùng với việc làm các xét
nghiệm khác và siêu âm nếu bác sĩ yêu cầu.
Như trên đã nói, có khoảng
2 - 3% trường hợp chửa trứng ác tính, tức là ung thư nhau thai. Ung thư nhau
thai chiếm tỷ lệ khá cao ở Việt Nam và nhiều quốc gia châu Á khác, khoảng
30/1.000 ca sinh và 2,6/1.000 ca có thai.
Ung thư có nguồn gốc
từ sự đột biến gen của những tế bào nuôi, một thành phần trong số
những tế bào chịu trách nhiệm hình thành các tổ chức có nhiệm vụ
nuôi dưỡng bào thai (bánh nhau, cuống rốn...). Tuy nhiên, những nguyên
nhân của sự đột biến vẫn chưa được rõ. Người ta ghi nhận ung thư nhau
có thể xảy ra trong một lần mang thai và ở những phụ nữ có tiền căn
sản khoa bất thường trước đó, như: thai trứng (chiếm đến 50% các
trường hợp ung thư nhau), sẩy thai tự nhiên (khoảng 20%), thai ngoài tử
cung (chỉ 2%)...
Đa số các trường hợp ung
thư nhau thai thường không có dấu hiệu báo trước đến khi bệnh bộc phát. Khi đã
mắc bệnh, các triệu chứng thường gặp là: Thai phụ có thể nôn nhiều
và kéo dài. Bụng to hơn tuổi thai. Phần lớn các trường hợp đều có dấu
hiệu xuất huyết âm đạo (có thể rỉ rả hoặc ồ ạt). Đau bụng từng cơn
hoặc liên tục. Đau ngực, khó thở, ho ra máu..., nếu đã có di căn
phổi. Có triệu chứng thần kinh nếu có di căn não.
Khi bệnh nhân có nghi ngờ
bị ung thư nhau thai, cần làm một số khảo sát và xét nghiệm cận lâm sàng để hỗ
trợ thêm cho việc chẩn đoán như: sự tăng cao bất thường của nồng độ Beta hCG
trong máu và trong nước tiểu. Siêu âm bụng sẽ giúp xác nhận tình trạng không có
thai trong tử cung và cho phép các bác sĩ tiến hành nạo lòng tử cung để sinh
thiết. Ngoài ra, qua siêu âm, các bác sĩ có thể phát hiện các di căn ở gan.
Chụp Xquang phổi cũng cần để giúp phát hiện các di căn phổi nếu có.
Lời khuyên của thầy thuốc
Tuy nguy hiểm, nhưng ung
thư nhau lại là một trong những loại ung thư nhạy với hóa trị. Nếu
chưa bị di căn, bệnh có thể chữa khỏi hoàn toàn. Hiện nay, phương
pháp điều trị chủ yếu là hóa trị và phẫu thuật, trong đó, hóa trị
đóng vai trò tiên quyết trong việc điều trị ung thư nhau.
Sau khi đã hóa trị và
đạt được kết quả tốt, tùy từng trường hợp cụ thể, các bác sĩ sẽ chỉ
định phẫu thuật cắt bỏ buồng tử cung và hai buồng trứng, hay cân nhắc khả
năng phẫu thuật bảo tồn, tức là chỉ lấy bỏ bướu tử cung hoặc âm
đạo cho bệnh nhân.
Sau phẫu thuật, bệnh
nhân cần đi khám lại, thử máu, nước tiểu định kỳ theo chỉ dẫn của thầy thuốc.
Với những người có nguyện vọng sinh con, ngoài tuân thủ chung, bệnh nhân cần có
biện pháp tránh thai ngay sau chữa bệnh và chỉ có thai sau 1 năm từ ngày chữa
bệnh. Bệnh nhân điều trị ung thư nhau thai thành công, khi mang thai lại cần
được theo dõi chặt chẽ để phát hiện, điều trị kịp thời các biến chứng ác tính
sau đó.
BS. Bằng Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét